Ý nghĩa một số pháp khí, khí cụ thường gặp trong Phật Giáo
Các loại pháp khí và khí cụ trong Phật giáo thường được sử dụng để tu tập, làm lễ cúng chư Phật, thực hành Pháp sự,… Mỗi loại pháp khí sẽ có một công dụng riêng nhưng chúng đều có điểm chung là thể hiện tinh thần từ bi và trí tuệ trong Phật giáo. Bài viết dưới đây là thông tin về một số loại pháp khí và khí cụ thường gặp trong Phật giáo bạn có thể tham khảo.
Ý nghĩa một số loại pháp khí trong Phật giáo
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, được rất nhiều người tín ngưỡng và tôn kính. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là người đã sáng lập ra đạo Phật nhằm mục đích cứu độ chúng sinh thoát khỏi u mê và kiếp luân hồi sinh tử, để đi đến chốn hạnh phúc không có khổ đau. Trong Phật giáo, có rất nhiều loại Pháp khí và khí cụ, mỗi loại sẽ có một công dụng và ý nghĩa khác nhau. Ví dụ như chuông báo hiệu nội quy trong chùa, dụng cụ dùng để cúng lễ, phương tiện thiền định,…
1. Chuông
Chuông là loại pháp khí quen thuộc trong Phật giáo, có thể dễ dàng thấy được ở đền chùa. Không ai biết chuông bắt đầu có từ bao giờ nhưng trong kinh thường xuyên nhắc đến việc dùng chuông. Theo quan niệm xưa, một tiếng chuông kêu thấu cửu trùng. Kinh Tăng Nhất A Hàm có nhắc, mỗi khi tiếng chuông chùa ngân vang thì các hình phạt ác đạo sẽ tạm nghỉ, chúng sanh chịu phạt sẽ được an vui tạm thời. Tiếng chuông chùa còn có tác dụng vơi đi phiền não trong cuộc sống. Khi Phật còn tại thế, Ngài đã dặn đệ tử hãy đánh chuông vào ngày rằm tháng 7 để tập họp Tăng chúng và thức tỉnh chúng sinh.
Có 3 loại chuông được sử dụng phổ biến trong tự viện là Đại hồng chung, báo chúng chung và gia trì chung. Điểm khác nhau của ba loại chuông này là:
- Đại hồng chung: Đây là loại chuông có kích thước rất lớn, còn được gọi là chuông u minh. Đại hồng chung thường được đánh vào đầu đêm để nhắc nhở chúng sanh cơn vô thường đã đến và đánh vào cuối đêm để thức tỉnh mọi người tinh tấn tu hành. Đại hồng chung sẽ được đánh 108 tiếng với ý nghĩa đoạn trừ 108 phiền não căn bản trong đời người.
- Báo chúng chung: Còn được gọi là Tăng đường chung. Loại chuông này có hình dáng giống Đại hồng chung nhưng kích thước chỉ bằng 1/2, thường được đặt ở góc chánh điện. Chuông báo chúng được đánh lên để báo tin cho chúng Tăng mỗi khi họp nhóm, thọ trai, khóa tụng,…
- Gia Trì chung: Là loại chuông được sử dụng chung với mõ trong tụng kinh và hành lễ trước bàn thờ Phật. Hình dáng của Gia trì chung tựa như nửa quả cầu hoặc cái tô để ngửa. Loại chuông này được sử dụng nhằm mục đích điều hòa và ra hiệu tụng kinh. Mỗi khi lễ Phật, gia trì chung sẽ được đánh lên một cách nhịp nhàng và đều đặn.
2. Trống
Trong Kinh Kim Quang Minh có chép, Tín Tướng Bồ Tát nằm mộng thấy một cái trống vàng lớn phát ra ánh hào quang, trong hào quang có nhiều Đức Phật đang tọa trên đài sen, chung quanh Phật là hàng trăm ngàn đệ tử Phật môn đang nghe Pháp. Khi có người cầm dùi đánh mạnh vào trống thì phát ra tiếng vang rền như lời kinh sám hối. Sau khi tỉnh mộng, Ngài đã đem tất cả điều này kể cho Đức Thế Tôn. Đức Phật cũng đã dùng tiếng trống và tiếng chuông để chỉ cái Tâm cho ngài A nan.
Trong Phật Giáo, trống có hai loại là trống đại và trong tiêu. Trống đại là loại trống lớn, được đánh trước khi chuông u minh reo. Tiếng trống vang sẽ tượng trưng cho chánh pháp, khi chúng sanh nghe được tiếng trống sẽ giúp tiêu trừ nghiệp chướng và thoát ly khỏi kiếp luân hồi sinh tử.
Ngoài ra, trống lớn còn được sử dụng khi thuyết pháp, làm lễ lớn tại phật điện, cúng dường Tam Bảo,… Khi thuyết pháp, trống lớn được đánh 3 lần để triệu tập thính chúng. Khi làm lễ thỉnh Tam Bảo, lễ khai kinh,… thì trống lớn được đánh theo thể thức bài Bát Nhã hội. Đánh trống nhằm mục đích đỡ hơi cho người tán tụng, tăng phần trang nghiêm và long trọng khi làm lễ.
3. Mõ
Trong Sách Sắc tứ thanh quy pháp khí có viết, loài cá luôn luôn thức tỉnh và không bao giờ ngủ. Hành động gõ mõ chạm vào hình dạng con cá mang ý nghĩa khơi dậy hồn tình và làm con người tỉnh lại sau cơn mê, nhắc nhở người tu hành nên cố gắng tu tập để mau chứng quả. Ngoài ra, đánh mõ còn nhằm mục đích bao tin giờ ăn uống, tu tập,…
Mõ gồm có hai loại là mõ hình bầu dục có chạm đầu cá và mõ hình điếu chạm hình con cá nằm dài. Mõ hình bầu dục thường được đánh khi tụng niệm. Lúc này, mõ cần được gõ một cách nhịp nhàng để giữ vẻ trang nghiêm khi tụng niệm, tránh bị rối loạn tâm trí, ngăn không cho tâm trí người tụng niệm rơi vào tình trạng hôn trầm. Còn mõ hình điếu sẽ được treo ở nhà trù để đánh báo tin giờ trai phạn.
4. Bảng Khánh
Trong sách tượng khí tiêu quyển thứ 18 có ghi chép, bảng là pháp khí được làm bằng thiết có hình giống đám mây nên còn được gọi là Vân bảng. Thời Vua Tống Thái Tổ, ông đã dùng bảng thánh khiết để thay thế cho trống vì tiếng trống rất dễ gây giật mình cho mọi người.
Hiện nay, các tòng tâm đều dùng bảng gỗ trổ theo bán hình bát giác có bề dày khoảng 4 tấc tây và bề cao hơn 2 tấc tây. Bảng được dùng thay thế cho trống hoặc dùng trong một số trường hợp như báo giờ thọ trai, báo giờ học tập, báo giờ họp Tăng, phân phát đồ cúng Phật,…
Khánh là pháp khí tương tự như bảng và có cách dùng giống như bảng. Tuy nhiên, Khánh là pháp khí có hình bán nguyệt, được đúc bằng đồng hoặc bằng đá cẩm thạch. Hiện nay, tòng tâm cũng có sắm khánh nhưng rất ít khi dùng đến.
5. Tràng hạt
Trong Đạo Phật, Tràng hạt là pháp khí rất quen thuộc, thường được dùng trong tu tập trì niệm. Tràng hạt gồm có 3 loại là loại nhất gồm 108 hạt, loại nhì gồm 54 hạt và loại ba gồm 18 hạt.
- Loại chuỗi 108 hạt biểu trưng cho 108 phiền não mà chúng sanh gặp phải trong cuộc đời, nếu cố gắng tu niệm sẽ loại bỏ được 108 phiền não căn bản ấy.
- Loại chuỗi 54 và 27 hạt không có ý nghĩa, loại này là chia hai hoặc chia bốn của chuỗi 108 hạt để tiện cho việc mang theo mình.
- Loại chuỗi 18 hạt được gọi là chuỗi tay, số lượng hạt của chuỗi tay bằng 1/6 của chuỗi 108 hạt. Một số quan niệm cho rằng, chuỗi 18 hạt sẽ tượng trưng cho 18 vị La hán, 18 vị Vương tử trong kinh Pháp hoa hoặc Thập bát giới cần tiêu trừ.
Dùng Tràng hạt để trì niệm tu hành sửa mình là cách mà Đức Phật đã dạy cho nhà vua Ba-lưu lê. Sau một thời gian tu tập theo cách này, nhà vua cảm thấy phiền não đã tiêu trừ bớt, tai biến trong quốc độ cũng giảm hẳn và dân chúng trở nên hiền lành hơn. Từ đó, phương pháp tu niệm lần tràng hạt ra đời rồi truyền bá rộng rãi khắp nơi. Hiện nay, Phật tử luôn dùng đến tràng hạt để tu niệm.
6. Tích Trượng
Tích trượng trong tiếng Phạn được gọi là Kích-khí-la, nghĩa là gậy dùng để đi đường hoặc đi khất thực của Tỳ kheo. Tích nghĩa là tỉnh ngộ, trượng là gậy. Tích trượng được hiểu là chiếc gậy đức hạnh và trí tuệ, giúp người tu hành không bị say đắm trong ngũ dục, có thể mạnh tiến trên con đường tu tập và đi ra khỏi cõi ta bà sanh tử. Tích trượng còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Khí trượng, Đức trượng,… Phật dạy, chúng đệ tử nên thọ trì Tích trượng vì đây là loại pháp khí mà 3 đời Đức Phật đều thọ trì. Hiện nay, tích trượng thường được các nhà sư Phật giáo Bắc tông sử dụng trong các nghi lễ Phật giáo.
Tích trượng có chiều cao không quá đầu và bề kính vừa tay cầm. Tích trượng là pháp khí do chính Phật Thích Ca chế ra, trên đầu tích trượng có 4 cái vòng và 12 khâu nhỏ bằng đồng, tượng trưng cho 4 đế và 12 nhân duyên. Trong Phật giáo còn có một loại tích trượng khác do Phật Ca Diếp chế ra, gọi là Bách trượng thanh quy. Bách trượng thanh quy trên đầu chỉ có 2 vòng và 6 khâu, tượng trưng cho chơn tục nhị đế và lục độ.
7. Bát
Khi Đức Phật còn tại thế, có hai thương gia Ấn Độ phát tâm đem sữa đi cúng Phật nhưng Phật không có gì để đựng. Lúc này, 4 vị Thiên vương đã đem 4 cái bát làm bằng các nguyên liệu quý giá đế cúng Phật đựng sữa như vàng, ngọc, ngà,… nhưng Phật không nhận. Nhưng khi các vị Thiên vương cúng dường 4 cái bát làm bằng đá thì Đức Phật hoan hỉ nhận lấy.
Bát trong tiếng Phạn gọi là Bát da la, được hiểu là Ứng lượng khí. Bát là dụng cụ dùng để đựng thực phẩm vừa với sức ăn của một người. Bát sử dụng trong Phật giáo được trạm trổ bằng đá, nặn bằng đất sét rồi nung chín hoặc phết sành. Những loại Bát được làm từ vật liệu quý hiếm như vàng, ngọc, bạc,.. được xem là bảo vật nên người xuất gia không được sử dụng. Đồng thời, người xuất gia cũng không được dùng bát gỗ vì bát gỗ là bát của Bà la môn – giáo phái ngoại đạo thờ Phạm thiên ở Ấn.
Khất thực là một trong những phương thức tu hành của các tu sĩ ở các quốc gia đi theo Phật giáo Tiểu Thừa. Ví dụ như Ấn Độ, Miến Điện, Tích Lan,… Lúc này, chư Tăng sẽ sử dụng bát để đi khất thực. Còn những quốc gia đi theo Phật giáo Đại Thừa sẽ không có phương thức tu hành khất thực, trong đó có Việt Nam. Vì thế, bát rất ít khi được sử dụng trong Phật giáo Đại thừa, dụng cụ này chỉ dùng trong 3 tháng an cư kiết hạ.
8. Lự Thủy Nan
Lự Thủy Nan là túi lọc nước, được dùng để lọc nước uống, lọc nước sinh hoạt,… Lự Thủy Nan sử dụng trong Phật giáo với hai ý nghĩa. Ý nghĩa đầu tiên là phòng ngừa bệnh tật và giữ gìn vệ sinh. Ý nghĩa thứ hai là bảo vệ sinh mạng, tránh giết hại vi trùng trong nước. Trong kinh Chánh pháp niệm có chép, nước để qua đêm sẽ sinh ra vi trùng, nếu không lọc kỹ thì không được dùng để tránh phạm giới sát sanh.
Lự Thủy Nan được chế tác và sử dụng theo 5 cách là Phương la, Pháp bình, Quân trì bình, Chước thủy là và Y giác la. 5 hình thức này có cách thực hiện khác nhau nhưng công dụng là giống nhau. Túi lọc nước sau khi sử dụng xong cần nhúng vào chỗ lấy nước để vi trùng bị lọc được trở lại chỗ cũ.
9. Pháp phục
Pháp phục được gọi với nhiều danh từ khác nhau như nhẫn nhục khải, phước điền y, giả thoát phúc,… Đây chính là y phục dành cho người xuất gia. Hình thức và màu sắc của pháp phục khác hoàn toàn so với thường phục. Mặc pháp phục để phân biệt với lối ăn mặc thông thường của thế gian, giảng trạch giữa tăng với kẻ tục. Hành động mặc pháp phục còn biểu thị đức phẩm hạnh và tôn chỉ ý chí siêu trần của người xuất gia.
Để phân biệt Phật sự của chúng Tăng thì Pháp phục còn được chia thành ba loại cơ bản là An đà hội (Y phục để mặc ra đường), Uất đa la Tăng (y phục dùng khi nhập chúng, thọ trai, lễ Phật, tháp,…) và Tăng già lê (loại y lớn nhất trong tất cả).
Áo Ca sa được gọi là giải thoát phục hoặc phước y điền. Trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật có nhắc, áo Ca-sa là pháp phục mà đệ tử của các Đức Phật quá khứ từng mặc và hàng đệ tử của chư Phật vị lai cũng sẽ mặc. Vì thế, Ngài đã dùng kéo cắt áo cà sa cho hàng đệ tử Sa-môn mang đắp. Áo Cà sa hoại sắc là Tiêu thức của Thánh hiền nên không bao giờ bị giặc cướp mất. Nếu chúng sanh phát tâm kính trọng sẽ nhận được phước báu vô lượng. Ngược lại, nếu khởi phát ác tâm với chư Phật và người mặc áo cà sa sẽ chịu lấy quả báo đau khổ. Đức Phật đã nhờ vào tâm kỉnh tính và mang đắp Cà sa mà tu thành Chánh quả.
10. Tháp
Khi Đức Phật còn Tại thế, Ngài được rất nhiều người kính mến. Trong một lần Ông Cấp Cô Độc đến thỉnh an, Đức Phật đã cắt ít tóc và móng tay của bản thân để trao tặng. Điều này đã khiến Ông Cấp Cô Độc rất vui mừng, xin phép xây dựng hai bảo Tháp để tôn trì cúng dường và được Đức Phật chấp thuận. Ngày nay, Ấn Độ có hai ngôi chùa thờ tóc và răng của Đức Phật nên được gọi là chùa Răng và chùa Tóc.
Theo kinh Bát Niết Bàn quyển hạ, kim thân của Đức Phật sau khi nhập niết bàn đã được chúng đệ tử đem làm lễ trà tỳ. Xá lợi của Ngài được chia thành 8 phần cho 8 vị quốc vương đem về mỗi quốc gia xây tháp cúng dường. Đây cũng là lần đầu tiên có 8 ngôi Tháp thờ Xá lợi Phật được xây dựng sau khi Phật nhập Niết bàn.
Đến đời vua A Dục, vị vua này đã thỉnh Xá lợi Phật trong 8 ngôi tháp trên để phân thành 84.000 phần rồi dựng thành 84.000 ngôi tháp ở khắp Ấn Độ. Hiện nay, do đã trải qua thời gian quá lâu cùng với sự thay đổi hoàn cảnh tôn giáo ở Ấn Độ nên số tháp do vua A Dục xây dựng đã không còn nguyên vẹn nữa.
Hiện nay, Tháp trong Phật giáo dùng để chỉ phần mộ cao, thường dùng để tôn trì xá lợi. Theo kinh A Hàm thì Tháp được sử dụng cho Đức Phật, Duyên Giác, Thanh Văn và Chuyển Luân Vương. Nhưng theo kinh Nhân Duyên thì Tháp được dùng cho 8 hạng người và số tầng Tháp sẽ có sự khác nhau dựa vào quả vị tu chứng.
Có thể bạn quan tâm: